CHATTHUGIAN.MOBIE.IN
kính chào qúy khách

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Tử Vi   Truyện Tranh  
Facebook  Xổ Số  Dịch  Tải Game  Báo  Tiền Ảo Bitcoin 

  CHIẾN BINH CẦU VỒNG 


Phan_8

  Chương 14 - Bảng điểm dành cho mẹ Một sợi dây thừng to đen thui treo đung đưa phía trên mặt nước màu nâu cuồn cuộn chảy. Một đầu dây được cột vào nhánh một cây cao sư mục vươn lên như một cánh tay giữa dòng sông. Chính Samson đã buộc sợi dây vào đó. 

Khoảng cách từ bờ đến cành cây đó chừng mười bảy mét. Có nghĩa là con sông rộng chừng ba mươi mét, và chỉ có Thượng đế mới biết nó sâu bao nhiêu. Dòng chảy rất xiết, nét điển hình của những con sống ở Belitong khởi nguồn từ biển và lại đổ ra biển. Mặt nước sáng lấp lánh dưới ánh nắng chói chang. 

Sát mép sông, thằng A Kiong mặt tái xanh đang đứng cầm đầu kia của sợi dây. Nó leo lên cây kepang đối diện cây cao su và cột đầu dây đó vào một nhánh cây. 

Tôi run lên bần bật khi đu người trên sợi dây thừng đó, tay nọ nối tay kia nhích về phía cây cao su. Tôi vắt vẻo như một người lính trong buổi diễn tập; chân tôi thỉnh thoảng tuột khỏi sợi dây, rớt xuống đụng phải mặt nước bên dưới, khiến máu trong người tôi như đông cứng lại. Tôi có thể trông thấy mờ mờ bóng của mình in trên mặt nước nhờ nhờ. Nếu tôi ngã xuống, rất có thể rồi người ta sẽ tìm thấy tôi mắc kẹt giữa đám rễ được gần cầu Linggang, cách đây năm mươi cây số. 

Tất cả những nỗ lực khó nhọc ấy – vốn không được cha mẹ đồng tình – chỉ nhằm hái cho được trái cao su và làm tăng giá trị những cuộc cá cược của chúng tôi trên vũ đài tarak. Mà cũng có lẽ hành động ngốc nghếch ấy là do chúng tôi không thắng nổi trí tò mò muốn làm sáng tỏ những bí mật của trái cao su huyền bí. 

Chỉ nhìn hình dạng và màu sắc của loại trái này thì không thể nói được độ rắn chắc của vỏ trái, và đấy chính là điều bí ẩn. Ở đây còn có sự hấp dẫn khôn cưỡng của trò chơi tarak cổ xưa huyền thoại. Một điều then chốt đứa nào cũng biết là cây cao su có trái cứng nhất luôn ở tuốt trong rừng sâu, và để có được nó thì phải có sức mạnh phi thường hoặc quyết tâm vừa sắt đá và dại dột. 

Trong trơ chơi tarak, xếp trái cao su này lên trên trái kia, rồi dùng tay đập chúng. Trái nào không vỡ, chủ nhân trái đó thắng cuộc. Trò tarak là trò chơi rộ lên ở làng chúng tôi vào mùa mưa, khởi động cho những trò khác hào hứng hơn nhiều khi những trận mưa như trút bắt đầu từ trên trời đổ xuống. 

Khi mưa trở nên dữ dội hơn, trò tarak cũng bắt đầu nhạt dần. Khi không đứa nào chơi trò tarak nữa thì có nghĩa là đã cuối tháng Chín – một cách tính thời gian nguyên sơ dựa vào các biểu hiện của thiên nhiên. Cả thế giới trở nên trì trệ hằn trong suốt ba tháng tiếp theo bắt đầu bằng chữ cái m ấy – tất nhiên là ngoại trừ chúng tôi. 

Sự buồn chán của những tháng cuối năm là dành cho người lớn. Đối với chúng tôi, cuối năm mang đến nhiều niềm vui, và nỗi niềm vui có câu chuyện riêng cảu nó. Bạn thân mến, tôi sẽ chia sẻ cùng bạn, từng câu chuyện một. 

Trước hết là Lintang. Nó thông báo cho chúng tôi rằng nó vừa mua một lốp xe đạp mới chắc chắn hơn thay cho cái cũ với hằng ha sà lỗ thủng. Nó cũng đã chữa cái xích. Mục tiêu của nó là để chở được mẹ. Và lần đầu tiên, mẹ nó sẽ đến trường nhận bảng điểm của con trai. Mắt Lintang sáng lên khi nói về mẹ. Nó thường đến nhận bảng điểm cùng cha. Rõ ràng Lintang vô cùng hãnh diện khi có thể trao cho mẹ bảng điểm đứng đầu lớp của mình. 

Lintang và cha mẹ nó là những người đầu tiên đến ngồi trên băng ghế dài ngoài lớp học. Vì họ chỉ có mỗi một chiếc xe đạp nên cha nó phải đi bộ từ nửa đêm. Trời vừ sáng thì Lintang cũng vừa kịp chở mẹ nó đến nơi bằng xe đạp. 

Sau khi phụ huynh và học sinh đã đến đông đủ, thầy Harfan lên phát biểu ngắn gọn. Thầy nói với tất cả những ai có mặt rằng Lintang là niềm kiêu hãnh của ngôi trường Muhammadiyah. Để thể hiện lòng kính trọng đối với mẹ Lintang vì bà đã đi một đoạn đường xa đến đây, ông mời bà phát biểu vài lời. 

Bà thoạt tiên ngượng nghịu và chần chừ, nhưng rồi cũng đứng lên. Bà không may mắc phải chứng bại liệt từ nhỏ nên giờ đi phải chống gậy. Lintang đứng lên đỡ lấy tay mẹ nó. 

Mẹ Lintang đón lấy bảng điểm từ tay thầy Harfan. Tay bà run run. Bà mở trang đầu tiên, không biết rằng mình cầm bảng điểm lộn ngược. Giống như cha Lintang, cha tôi và hầu hết những bậc cha mẹ khác, mẹ Lintang không biết chữ. 

Bà cảm ơn cô Mus và thầy Harfan. Giọng bà khó nghe – giọng Mã Lai của người miền biển. Đây là lần đầu tiên bà ra khỏi làng, và ai nấy đều mỉm cười mà lòng bùi ngùi khi bà nói thật khó tin rằng ngày nay biết đọc viết lại có thể thay đổi được tương lai. 

Bà biết rằng trường chúng tôi có nguy cơ bị đóng cửa. Bà bảo hằng đêm bà cầu nguyện, bà luôn cầu nguyện rằng Lintang sẽ đạt giải Học sinh giỏi để trường chúng tôi không phải đóng cửa – một hy vọng hết sức chân thành. 

Có vẻ gia đình miền biển ấy đặt nhiều hy vọng lớn lao vào việc học của Lintang. Họ tin rằng tương lai của họ có thể tốt đẹp hơn nếu Lintang có được tấm bằng. Mẹ Lintang dừng nói sau khi bảo rằng bà thật sự tự hào về đứa con trai cả của mình. Tôi nhìn Lintang. Hai mắt nó mờ lệ, nó cúi đầu để nước mắt rơi xuống sàn. 

Sau khi mẹ Lintang phát biểu xong, thầy Harfan mời Lintang lên. Mắt vẫn còn ướt lệ, Lintang bày tỏ lòng biết ơn mẹ và dành tặng thành tích học tập xuất sắc của mình cho bà. 

 

Thường thì sau Lintang là đến lượt tôi. Tôi luôn xếp thứ nhì. Vị trí thứ nhì bất di bất dịch, như bề mặt trăng dưới mắt tôi luôn mang hình ảnh một người mẹ bồng đứa con. Tuy nhiên, lần này thì khác. Harun đã ẵm vị trí đó. 

Với nỗ lực cứu ngôi trường thoát khỏi bàn tay ông Samadikun đang hăm he muốn đóng cửa nó, cũng như vì muốn đánh giá cao Harun và khiến cậu ấy vui, cô Mus đã làm cho cậu một bảng điểm đặc biệt. Ngay cả những con số bên trong cũng đặc biệt. Cô mus nói với Harun bằng thái độ rất dân chủ. Trước hết, Harun hỏi, “Thưa cô, trong tất cả các môn học trong cuốn sổ này, môn nào quan trọng nhất?” 

“Đạo đức,” cô Mus trả lời giọng đầy thuyết phục, chỉ tay vào hàng dưới cùng trong bảng điểm. 

Harun gật đầu, và bằng giọng điệu còn đầy thuyết phục hơn nữa, yêu cầu được cho điểm bằng với Lintang và Trapani. Hành động đó chắc chắn sẽ giúp cậu ấy đứng nhì lớp, đánh bại tôi. 

Có một cuộc tranh luận nho nhỏ với cô Mus về bảng điểm cho môn Đạo đức. Môn đó Harun đòi ba điểm. 

“Em à, điểm ba là điểm thấp lắm. Mà em thì có đạo đức tốt. Cô nghĩ xứng đáng được điểm tám môn này.” 

Harun sững người. Cô Mus nói có một điểm ba trong bảng điểm thì thật đáng thương. 

“Điểm tám cho em là đúng rồi đấy. Ấy là điểm số cao nhất cô từng cho bất kỳ học sinh nào trong môn này. Không tuyệt hay sao? Em nhận điểm cao nhất cho môn học giá trị nhất trên thế giới.” 

Cô Mus nói đúng, và tất cả chúng tôi đồng ý. Hành vi ứng xử gương mẫu của Harun xứng đáng được nhận điểm tám. Điều mỉa mai là ngược lại, chúng tôi, những đứa có đầu óc bình thường hơn lại chẳng bao giờ nhận được điểm tám cho môn Đạo đức. 

Cô Mus thuyết phục đến thế nhưng Harun vẫn không suy chuyển. Cô Mus đành thôi thuyết phục khi nghe cậu thản nhiên nói, “Thượng đế thích những số lẻ, thưa cô.” 

Thế là số ba được ghi vào bảng điểm của cậu. Do vậy điểm trung bình của cậu tụt xuống. Tuy nhiên, bởi vì cậu đã lấy hết điểm mười từ bảng điểm của Lintang và những điểm cao khác từ bảng điểm của thần tượng Trapani của mình nên cậu vẫn cứ xếp thứ nhì. 

Cô Mus đã quyết định sáng suốt khi làm bảng điểm cho Harun. Mẹ cậu vui như thể trong lễ tốt nghiệp của con mình vậy. Harun nhe răng cười và vẫy vẫy bảng điểm phấp phới trong không trung. 

 

Chiều tàn, buổi lễ bế giảng cũng vừa kết thúc. Tôi ngồi sau xe cha tôi mà mắt không thể rời khỏi nhà Lintang khi họ cũng cùng nhau ra về. 

Lintang đạp xe tay nắm chắc ghi đông, trên vai trái lủng lẳng chiếc nạng của mẹ nó. Bà ngồi đằng sau, còn cha nó đi bộ theo, vừa đi vừa đẩy xe. 

Mẹ Lintang nói luôn miệng, tay mân mê bảng điểm. Dường như bảng điểm ấy và năng lực học tập của Lintang phần nào giúp họ thoát khỏi những tất bật cơm áo gạo tiền thường nhật trong phút chốc. 

Gia đình Lintang giống như những hộ nghèo khác trong cộng đồng ngư dân Mã Lai và Indonesia. Họ mang nặng nỗi thống khổ ấy trong lòng từ thế hệ này đến thế hệ khác. Họ nuốt nỗi đắng cay về những mơ ước tương lai không bao giờ thành, những mỗi ngờ vực về việc học của con cái họ. Nỗi thống khổ của người nghèo khó ấy chẳng bao giờ đến được tai ai, chẳng bao giờ thành mối bận tâm của những người giàu có hoặc chính quyền. Nhưng hôm nay nỗi cơ cực của gia đình miền biển nghèo khó đó đã tạm thời tan biến nhờ vào những điểm mười sáng chói trong bảng điểm của đứa con trai phi thường ấy. 

Bầu trời tối đen. Lintang và cha mẹ nó chạy vội tới trú dưới một tán cây gayam. Hàng triệu con ong từ trong nói ùn ùn kéo về làng. Cơn mưa đầu mùa đã đến. 

 

  Chương 15 - Mưa đầu mùa ĐẢO BELITONG nằm tại điểm giao nhau giữa biển Đông và biển Java. Địa điểm này được Java và Kalimantan che chắn, giúp cho bờ biển tránh được những đợt sóng khủng khiếp, nhưng hàng triệu lít nước bốc hơi từ những biển xung quanh trong mùa khô lại đổ hết xuống đây cả ngày lẫn đêm trong suốt mùa mưa. Cơn mưa đầu tiên là ân sủng của ông trời, và chúng tôi hân hoan chào mừng nó. Mưa càng to, sấm càng lớn, gió thổi càng mạnh, ánh chớp càng lóe sáng bao nhiêu thì lòng chúng tôi càng hoan hỉ bấy nhiêu. Chúng tôi để những cơn mưa như thác đó gột rửa sạch bụi trần trên cơ thể phàm tục của chúng tôi. Không đứa nào để tâm đến việc bị cha mẹ phạt roi mây vào mông; hình phạt đó chẳng là gì so với sức quyến rũ đến từ cơm mưa ấy. Dù có thế nào thì chúng tôi vẫn cứ đi, những con vật kỳ lạ ngoi từ đáy mương lên, leo qua những thân cây đổ và những chiếc xe đi công trình của PN ngập trong dòng nước lũ, với mùi nước mưa làm căng tràn sức sống nơi lồng ngực bọn chúng tôi. 

Chúng tôi cứ thế dầm trong mưa cho đến khi môi đứa nào đứa nấy tìm tái hết cả và những ngón tay tê cóng đi mới thôi. Không gì ngăn nổi chúng tôi. Chúng tôi là những VIP đầy quyền lực trong suốt mùa mưa. Cha mẹ chúng tôi bực bội, thất vọng vì con cái chẳng chịu vâng lời. Chúng tôi tha hồ chạy nhảy, chơi bóng, xây lâu đài cát, đóng giả thằn lằn, bơi trong bùn, hét lên khi thấy phi cơ bay ngang qua trên bầu trời, hú lên từng hồi gọi mưa và sấm sét như thể một bọn điên. 

Trò vui nhất là một trò chơi không tên nhưng phải cần đến lá cây pinang hantu. Một hay hai đứa ngồi trên một chiếc lá to cỡ tấm thảm cầu kinh. Hai hoặc ba đứa khác kéo lá - thật nhanh. Giống như trượt tuyết. 

Đứa ngồi trước nắm lấy chiếc lá giống như cầm dây cương cưỡi lạc đà. Đứa ngồi sau ôm chặt đứa ngồi trước để khỏi bị ngã. Những đứa bự con nhất trong chúng tôi - Samson, Trapani và A Kiong - giữ vai trò người-kéo-lá, một biệt hiệu mà cả bọn rất lấy làm tự hào. 

Cao trào của trò chơi xuất hiện vào lúc người-kéo-lá, khỏe như ngựa, quay ngoắt sang hướng khác và cố tình kéo mạnh hơn. Những đứa ngồi trên lá sẽ bị quăng mạnh về một bên, tạo nên một cú trượt gấp chỗ đất bùn trơn láng đó, bén ngọt và rất “đã”.

Tôi cảm thấy cơ thể mình quật bên này đập bên kia không sao kiểm soát được và trông thấy một làn sóng bùn khổng lồ bắn tung tóe về phải khiến cho những đứa đứng xem ướt sũng bùn. Sahara, Harun, Kucai, Mahar và Lintang nhảy cẫng lên thích chí khí người ngợm vấy đầy bùn từ cú trượt lá đó. Nước càng bẩn, tụi nó càng khoái chí. Tụi nó vỗ tay, cổ vũ ầm ĩ. Ngồi đằng sau, Syahdan ôm tôi chặt cứng và hò reo phấn khích. 

Syahdan hành động y như lái phụ của tôi, bắt chước một kẻ liều lĩnh tóc dài cưỡi xe máy xuyên qua đường hầm bốc cháy - hay thậm chí còn đỉnh hơn nữa, cứ như một tay đua tốc độ khom người xuống khi thực hiện một cu cua ngoạn mục - một tư thế táo bạo đầy phong cách. Khoảnh khắc đó là khoảnh khắc tuyệt vời nhất trong toàn bộ trò chơi. 

Nhưng chuyện không dừng lại ở đó. Cú cua bén ngọt đó rất khó thực hiện sao cho thành công trọn vẹn; mấy đứa kéo lá đâm sầm vào nhau ngã dúi dụi. Còn Syahdan và tôi bị nẩy bật ra khỏi chiếc lá, quay mòng mòng trước khi văng tõm xuống rãnh nước. 

Đầu tôi nặng trịch. Tôi đưa tay lên rờ nắn và thấy một vào cục u bắt đầu nổi lên. Giọng tôi nghe rất lạ, chẳng khác gì người máy. Một cơn đau nhói xuất hiện nơi thái dương bên phải và lan đến mắt, y hệt cảm giác khi bị sặc nước. Tôi vừa ho sặc sụa vừa đưa mắt tìm kiếm Syahdan, nó băng ra xa hơn tôi một ít. Tôi trông thấy nó nằm sóng soài, bất động, nửa thân người ngập trong nước. 

Ôi không! Chuyện nghiêm trọng rồi. Nó bất tỉnh hay sao ấy nhỉ? Nó có bị chấn thương gì không? Nó chết rồi sao!? Nó không thở. Nó ngã quá mạnh, cứ như một cái thùng phi bị văng ra khỏi xe tải. Tôi nom thấy một dòng máu đặc chảy ra từ mũi nó. Cả bọn vây quanh thân thể bất động như xác chết của nó. Sahara bắt đầu sụt sịt, mặt cắt không còn giọt máu. A Kiong run như cầy sấy. Trapani rú lên gọi mẹ. Tôi vỗ vỗ hai má nó. 

“Syahdan! Syahdan!” 

Tôi bắt mạch trên cổ nó, bắt chước trong phim truyền hình nhiều tập Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên chiếu trên tivi. Vì đâu biết tìm mạch như thế nào nên tôi chẳng tìm thấy gì. Samson, Kucai và Trapani lắc lắc Syahdan, cố khiến nó tỉnh. Những nó vẫn nằm im bất động. Môi tái nhợt và người lạnh như băng. Sahara bắt đầu thút thít. “Syahdan… Syahdan… tỉnh dậy đi!” nó van nài. 

Chúng tôi hoảng lên, không biết phải làm gì. Tôi cứ gọi tên nó mãi, nhưng nó vẫn không hề cử động. Syahdan đã chết. Syahdan tội nghiệp, thật bi thảm biết bao. 

Samson bảo chúng tôi nên vực nó dậy. Thân người nó cứng đờ. Khi chúng tôi khiêng nó đi, tôi giữ phần đầu. Sahara khóc ai oán. Chúng tôi đứa nào đứa nấy kinh hoảng tột độ, nhưng đúng lúc tình huống đang bi đát thì trên cái đầu đen trũi xoăn tít trong tay tôi bỗng xuất hiện hai hàm răng đầy bựa với mấy cái răng họn như rìu phá băng rồi cười một tràng cười khoái trá xổ ra. 

Ôi trời! Tên lái phụ của tôi giả chết! Thằng oắt đó nằm bất động và nín thở để bọn tôi tưởng nó chết. Bọn tôi trả đũa bằng cách ném nó trở lại con rãnh. Nó càng khoái trí tợn, tiếp tục cơn cười trong khi chúng tôi vẫn tẽn tò. Sahara quệt nước mắt bằng cánh tay đầy bùn. Tôi liếc nhìn Syahdan, dù đau nhưng nó cũng cười đến chảy nước mắt - nước mắt hòa cùng nước mưa. 

Điều lạ lùng là, dù té ngã, đâm sầm vào nhau và lăn quay ra đau thế nhưng bọn tôi luôn cười vang khoái chí và bỡn cợt nhau nữa - đây chính là điều hấp dẫn nhờ trò chơi không tên đó. Bọn tôi cứ chơi đi chơi lại trò đó. Cú ngã không bắt nguồn từ cái góc cua đầy thách thức hay tốc độ và sức nặng mà là bởi chúng tôi thích thế - ý thích ngốc nghếch trong những ngày mùa mưa. Cuộc sống dù có khó khăn chật vật biết mất song những tháng cuối năm với bọn chúng tôi bao giờ cũng thật thú vị. Buổi tiệc mùa mưa chính là một lễ hội được thiên nhiên bày ra cho những đứa trẻ Mã Lai nghèo khổ chúng tôi. 

 

  Chương 16 - Bài thơ tuyệt hay và đàn chim Pelintang Pulau KHÔNG GIỐNG NHƯ MỌI NĂM, tháng Tám đến mà mùa khô vẫn chưa rời khỏi làng chúng tôi. 

Cây cối héo khô cả. Mỗi khi có xe đi ngang qua, bụi đỏ lại tung lên mù tịt, bám dày đặc các bậu cửa sổ nhà hai bên đường. Làng tôi khô rang và bốc mùi gỉ sét. 

Sinh hoạt của cộng đồng người Hoa náo nhiệt hẳn: tắm vào giữa ngày, chải tóc ưới hất ngược ra đằng sau và bấm móng tay. Họ là cộng đồng duy nhất nom sạch sẽ hơn một chút trong suốt mùa khô. 

Cộng đồng người Sawang, trái lại, ngồi ôm vẩn vơ mất cây cột trong dãy nhà dài của mình. Trời nóng bức quá, họ không tài nào ngủ được dưới mái nhà không trần cong queo vì sức nóng, cũng không thể làm việc vì họ đã kiệt sức quá rồi. Thật là tiến thoái lưỡng nam. 

Người Sarong, như tôi đã kể rồi đấy, ở ngoài biển suốt cả ngày lẫn đêm. Chẳng mấy nữa mà những tháng cuối năm xộc đến, và rồi gió nổi lên mỗi lục một điên cuồng. Mùa khô là cơ hội kiếm tiền của họ. 

Người Mã Lai trở nên nhớp nhúa hơn và ở nhà hầu suốt cả ngày. Không nhà ai có tủ lạnh. Thỉnh thoàng lại thấy mấy đứa trẻ lượn lờ trên đường cái, cầm cục đá và xi rô để làm nước giải khát. 

Bầu không khí ngột ngạt cứ thế kéo dài cho đến đem. Khi bình minh lên, nhiệt độ hạ xuống trầm trọng, thử thách lòng tin những tín đồ của nhà tiên tri Muhammad, thách thức họ bước ra khỏi giường tiến thẳng đến thánh đường để dự buổi lễ cầu kinh subuh. 

Mấy ngày qua, Lintang vẫn vui như thường lệ, nhưng mệt bã người vì cái xe đạp cà khổ. Dây xích, vẫn thường bị đứt, giờ trở nên ngắn đi nhiều do cứ mỗi lần đứt lại phải tháo một mắt xích ra. Lốp xe thì thì cứ xì liên miên. Thế là nó phải dắt xe hết đoạn đường từ nhà đến trường. Rốt cuộc cái xe đạp ấy chẳng thể dùng được nữa. 

Không còn chọn lựa nào khác, Lintang phải lội bộ mấy mươi cây số đến trường. Có một con đường tắt, nhưng rất nguy hiểm – phải đi qua một đầm lầy nhung nhúc cá sấu đang ngoác mõm chực sẵn. Giữa đầm lầy nước ngang tới ngực và phải bơi qua. Nhưng nếu phải đi bộ, Lintang buộc phải chật vật vượt qua con đường đó để có thể đến trường đùng giờ. 

Lintang thường kể khi nó đi qua cái đầm lầy ấy hàng tá cá sấu bơi theo với hàng bao nhiêu cặp mắt găm chặt vào nó. Do vậy mà trước khi đi học, nó thường tắm bằng lá trầu không, một chất khử trùng truyền thống. 

Khi lội qua đầm, nó cho quần áo và sách vở vào một cái túi nhựa cột chặt lại và giơ lên cao. Còn khi nào phải bơi thì nó dùng răng cắn chặt cái túi. Nó láo liên không ngừng để trông trừng bọn cá sấu. 

Hôm nay, Lintang đến trường ướt sũng từ đầu đến chân. Lúc nó đang cố thoát khỏi lũ cá sấu thì cái túi nhựa bung ra. Nó đứng sượng sùng ngay cửa lớp. Cô Mus gọi nó vào. Nó hoan hỉ học dù quần áo ướt nhẹp như thế. 

Sau buổi học, Lintang đến gần tôi. Vẻ mặt đáng thương của nó, giống như mùa khô hạn kéo dài, chẳng giống nó chút nào. Tôi ngạc nhiên; rầu rĩ đâu phải tính cách của Lintang chứ. 

“Mày sao thế?” tôi hỏi, cố ngoác miệng cười. “Sao buồn vậy?” 

Lintang lấy một thứ gì đó ra khỏi túi quần soóc. Một chiếc khăn tay. Tôi nhớ đã trông thấy mẹ nó cầm chiếc khăn tay đó vào cái hôm chúng tôi nhận bảng điểm. Nó mở tấm khăn và tôi trông thấy một chiếc nhẫn. 

“Đây là chiếc nhẫn cha tao tặng mẹ tao,” nó nói, giọng nó run run. “Mẹ tao không muốn mình bỏ học chỉ vì chiếc xe đạp. Mẹ tao bảo tao phải học thật chăm chỉ giành cho được giải Học sinh giỏi.” 

Tôi kinh ngạc. 

“Mẹ tao bảo đem nhẫn này đi bán để mua một sợi xích mới.” 

Mắt Lintang ngân ngấn nước. Tim tôi thắt lại. 

Hai đứa ra chợ. Chiếc nhẫn 18 karra đó được đặt lên một cái cân cầm tay: ba phân. Chất lượng vàng kém khiến nó trông cứ như vàng giả, nhưng đó là tài sản quý giá nhất trong nhà Lintang. Chiếc nhẫn chỉ bán được 125.000 rupi chỉ đủ mua được một sợi xích và hai lốp xe. 

Lintang khó lòng chia tay chiếc nhẫn cưới của mẹ nó. Nó nắm chặt nhẫn trong tay. A Bun, ông chủ tiệm vàng phải gỡ từng ngón tay nó mới lấy được chiếc nhẫn ra. Khi Lintang thả nhẫn ra cũng là lúc nó để nước mắt tha hồ tuôn rơi giàn giụa. 

“Mày sẽ đáp lại sự hi sinh của mẹ mày bằng giải Học sinh giỏi, Boi!” Tôi nói giọng cương quyết, hy vọng giúp nó nguôi ngoai. Boi là cách gọi thân mật giữa nhứng đứa con trai Belitong - Mã Lai. Lintang nhìn tôi rồi nghiêm túc nói, “Tao hứa, Boi.” 

Rồi hai đứa tôi gắn xích và lốp mới vào xe ngay trước cửu tiệm vàng. Tôi nhìn nó chằm chằm. Nó vừa mới hứa lời hứa thứ hai. Ôi chao, sao mà tôi yêu thằng bạn mình đến thế. 

Lintang và tôi chẳng mấy chốc quên béng vụ bán chiếc nhẫn cưới đau lòng đó. Tất thảy những nỗi buồn và mệt nhọc đều phải bỏ lại sau lưng, hay ít nhất gạt sang một bên, vì lớp tôi đang có kế hoạch trọng đại: cắm trại. 

Trong khi những học sinh trường PN đi xe buýt màu xanh da trời đến Tanjong Pandan để thăm quan sở thú hay viện bảo tàng, hay đi verloop - tiếng Hà Lan có nghĩa là đi nghỉ mát - cùng bố mẹ ở Jakarta, thì chúng tôi đi đến bãi biển Pangkalan Punai, cách đây sáu mươi cây số, và chúng tôi cùng đi xe đạp đến đó. 

Dù năm nào chúng tôi cũng đến Pangkalan Punai, nhưng tôi chưa khi nào thấy chán nơi này. Mỗi lần đứng trên bờ biển sát mép nước tôi đều cảm thấy ngạc nhiên, có thể ví tâm trạng tôi lúc ấy giống nhưu binh lính của Alexander Đại đế khi họ lần đầu tiên thấy Ấn Độ. Trước hàng chục hecta cát trải rộng đến tận cánh rừng, tôi đã cảm nhận được một vẻ đẹp thật khác biệt. Đó chính là ấn tượng của tôi về Pangkalan Punai. 

Buổi chiều xuống, tôi sung sướng đi dạo loanh quanh, rồi ngồi lại trên đỉnh ngọn đồi phía Tây. Tôi nghe vẳng lại tiếng trẻ con - con của ngư dân, con trai và con gái, nô đùa với phao, chơi bóng đá không cần cột gôn. Âm thanh ấy thật bình yên. 

Đằng sau tôi là một thảo nguyên, cũng mênh mông như đại dương trước mắt. Hàng ngàn con chim sẻ đồng đậu vắt vẻo trên những thân cỏ cao, chí chóe tranh nhau chỗ ngủ. Từ mấy khoảng trống giữa những hàng dừa, tôi trông thấy những tảng đá khổng lồ - nét đặc trưng của Pangkalan Punai - xếp thành dãy trên biển Đông xanh biếc lấp lánh. Những nhánh sống nước lợ quanh co uốn khúc từ xa để cuối cùng hợp lại rồi cùng nhau đổ ra biển, giống như những dòng bạc đang tan chảy. 

Khi đêm dần buông, những tia nắng màu cam và đỏ len lỏi qua mái nhà sàn làm bằng lá cây nanga nhô lên giữa những tán cây santigi. Khói bốc lên nghi ngút từ những bếp lò đun bằng củi dừa nhằm xua đuổi đám rệp lổn nhổn chui ra giữa buổi magrib. Đám khói, quyện với lời cầu nguyện lầm rầm, trôi lơ lửng qua ngôi làng như một bóng ma, chậm chạp bò ngược lên mấy nhánh cây bintang, là là bay theo cơn gió để cuối cùng hòa vào biển cả rộng lớn. Những đốm sáng đèn dầu lặng lẽ nhảy nhót lấp lóa sau mấy khung cửa sổ nhà sàn rải rác bên dưới. 

Tôi như mê đi trong khung cảnh êm đềm của vùng Pangkalan ấy. Tự nhiên trong đầu tôi hình thành một bài thơ. 

 

  Tôi mơ thấy mình được lên thiên đàng 

  Quả thật vào đêm thứ ba ở Pangkalan Punai tôi thấy mình được hóa lên thiên đàng 

  Hóa ra thiên đàng không hề hùng vĩ mà chỉ là một lâu đài nhỏ bé giữa rừng 

  Chẳng có thiếu nữ xinh đẹp nào như được kể trong kinh Koran 

  Tôi thả bộ qua một cây cầu nhỏ hẹp 

  Chào đón tôi là một phụ nữ có khuôn mặt thánh thiện 

  “Thiên đường là đây,” cô nói 

  Cô mời tôi đi dạo trên cánh đồng hoa 

  Dưới những đám mây đầy màu sắc 

  Về phía hành lang tòa lâu đài 

 

  Trên hành lang tôi trông thấy những tia sáng nhỏ đằng sau tấm rèm 

  Mỗi tia sáng chiếu rọi xuyên qua đám cỏ dày trong vườn 

  Đẹp không lời nào tả xiết 

 

  Thiên đường quá tĩnh lặng 

  Nhưng tôi muốn ở lại đây 

  Vì con nhớ lời hứa của Người, Thượng đế 

  Nếu con tới 

  NGƯỜI sẽ chạy lại đón con 

Trong chương trình cắm trại có một bài tập - một bài luận, một bức vẽ hay một món đồ thủ công làm từ các vật liệu lượm lặt ở bãi biển. Với bài thơ này, lần đầu tiên ở môn Nghệ thuật tôi đạt điểm cao hơn Mahar một chút; chuyện này xảy ra lần đầu và cũng là lần cuối. 

Mahar không đạt điểm cao nhất trong môn Nghệ thuật nhưng như thường lệ là do đàn chim thần thoại mà người Belitong gọi là pelintang pulau - theo nghĩa đen có nghĩa là loài chim băng ngang qua đảo. 

Ở đâu chim pelintang pulau cũng được người ta chú ý, nhưng không ở nơi nào chúng cũng được chú ý nhiều như trên bờ biển. Một vài người nghĩ rằng chúng là loài siêu nhiên. Chỉ cần nghe tiếng của loài chim ấy cũng khiến người dân sống trên bờ biển này kính sợ vì những truyền thuyết xung quanh chúng và thông điệp chúng mang đến. Nếu chúng xuất hiện thành đàn ở một ngôi làng thì ngư dân sẽ ngay lập tức hoãn dự định dong thuyền đánh cá; đối với họ, sự xuất hiện của những con chim huyền thoại này là dấu hiệu báo cơn bão biển đang đến. 

Bất luận những con chim này thật sự là gì đi nữa thì Mahar cũng tuyên bố nó đã trông thấy chúng trong khi tìm cảnh để vẽ một bức tranh cho bài tập môn Nghệ thuật. Nó trở lại trại khoe với chúng tôi những gì vừa trông thấy. Chúng tôi phóng vào rừng để tận mục sở thị một trong những loài chim quý hiếm nhất trong quần thể động vật phong phú của đảo Belitong này. 

Không may, chúng tôi chẳng trông thấy gì ngoài những cành cây trống trơn, bọn khỉ con đuôi dài và bầu trời trong veo. Mahar tẽn tò và thế là bọn bạn thi nhau chế nhạo. 

“Nếu ai ăn quá nhiều trái bintang, người đó sẽ bị say, Mahar à - nhìn gà hóa cuốc, nói năng hàm hồ,” Samson nổ phát súng đầu tiên. Và cả bọn bắt đầu lao vào tấn cống Mahar.

“Thật mà, Samson, tao trông thấy đàn năm con pelingtang pulau thật!” 

“Dò sông dò bể dễ dò, nào ai lấy thước mà đi xem một kẻ nói dối bao nhiêu,” Kucai nhại một câu ca dao. 

Nét tuyệt vọng hiện trên khuôn mặt Mahar. Hai mắt nó đảo tìm lia lịa trên mấy nhánh cây. Tôi thấy tội nghiệp cho nó quá thể. Nhưng biết bảo vệ nó bằng cách nào bây giờ? Nó không có chứng cớ gì để chứng minh mình đã trông thấy đàn chim ấy, nó bất lực. Tôi nhìn sâu vào mắt Mahar. Tôi tin nó đã trông thấy loài chim thiêng liêng đó. Nó may thật! Mỗi tội Mahar không thể thuyết phục được chúng tôi vì xưa nay nó vốn nổi tiếng là đứa hay nói láo. Đó là rắc rối dành cho những kẻ thích nói láo: khi rốt cuộc bạn cũng nói ra được một sự thật giữa hàng triệu lời nói dối, thì những người khác vẫn cứ cho rằng sự thật đó cũng chỉ là sản phẩm của một sự dối trá nữa mà thôi. 

“Đừng giàu trí tưởng tượng và dối trá nữa bạn ơi. Mày biết dối trá là điều cấm kỵ. Điều cấm kỵ đó được nói nhiều lần trong cuốn đạo đức mà,” Sahara triết lý. 

 

Tình hình trở nên rối mù cả lên khi cái tin Mahar trông thấy chim pelintang pulau lan khắp ngôi làng, ngay lập tức ngư dân hủy kế hoạch đánh cá ngoài khơi. Cô Mus cảm thấy bực bội vì không biết làm thế nào để khiến tình hình lắng dịu. Mahar bị dồn vào thế bí. 

Thế nhưng dù tin hay không, vào tối đó, gió giật dữ dội, khiến cho căn lều của chúng tôi bật ngửa. Sấm chớp liên hồi ngoài khơi. Mây đen ùn ùn kéo đến che khắp bầu trời. Chúng tôi hộc tốc chạy tìm chỗ trú trong một nhà dân. 

“Có lẽ mày trông thấy chim pelintang pulau thật, Mahar,” Sahara run run nói. 

Mahar không đáp. Tôi biết hai từ có lẽ chẳng nói lên điều gì. Cơn bão giúp câu chuyện của nó có cơ sở và ngư dân biết ơn nó, nhưng lũ bạn vẫn nghi ngờ nó bằng từ có lẽ. Nó cảm thấy bị tổn thương hơn bao giờ hết, nó cảm thấy mình như một persona non grata, kẻ bị ruồng bỏ. 


Phan_1
Phan_2
Phan_3
Phan_4
Phan_5
Phan_6
Phan_7
Phan_9
Phan_10
Phan_11
Phan_12
Phan_13
Phan_14
Phan_15
Phan_16
Phan_17
Phan_18
Phan_19
Phan_20
Phan_21
Phan_22
Phan_23 end
Phan_gioi_thieu
Nếu muốn nhận thông tin bài viết mới của trang thì like ở dưới hoặc truy cập trực tiếp CLICK

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Mẹo Hay   Trà Sữa   Truyện Tranh   Room Chat   Ảnh Comment   Gà Cảnh   Hình Nền   Thủ Thuật Facebook  
Facebook  Tiện Ích  Xổ Số  Yahoo  Gmail  Dịch  Tải Opera  Đọc Báo 

Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian

C-STAT .
pacman, rainbows, and roller s